Khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu (người dân nơi đây còn gọi với cái tên là Sơn Lăng) tọa lạc dưới chân núi Sam, trước là xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Ông là một trong những danh tướng trụ cột dưới triều Gia Long và Minh Mạng, được nhiều người biết đến với công trình kinh đào Thoại Hà và Vĩnh Tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế vùng đất mới phía Nam. Với nhiều đóng góp to lớn, ông được nhân dân kính trọng và thờ phượng tại nhiều nơi ở miền Tây Nam Bộ.
Bên trong khu mộ, ở vị trí trung tâm là mộ song táng của ông với bà vợ chánh thất Nhất phẩm phu nhân Châu Thị Tế, phía bên tả là mộ bà vợ thứ thất Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt, kiến trúc mộ phần của vợ chồng ông được xây rất trang nghiêm và rất bề thế. Ngoài ra, phía bên hữu là một quần thể mộ, có 14 ngôi mộ được chôn thành một nhóm kề cận bên nhau, nhưng được xây đơn giản và nhỏ hơn.
Khu mộ do chính ông thiết kế và được xây dựng vào khoảng năm 1822 (niên hiệu Minh Mạng thứ 3) theo sự chỉ đạo trực tiếp của ông. Đây là công trình kiến trúc cổ thời triều Nguyễn có giá trị đặc biệt, không chỉ vì vai trò lịch sử của Thoại Ngọc Hầu trong việc mở mang bờ cõi, khai khẩn vùng đất phía Nam mà còn bởi kiến trúc giàu tính biểu tượng, kết hợp hài hòa yếu tố phong thủy, gắn liền với văn hóa tín ngưỡng và triết lý Á Đông.

1. Kiến trúc đặc trưng của khu mộ
Nhìn tổng thể từ bên ngoài vào, khi bước lên 9 bậc cấp bằng đá ong có một khoảng sân rộng, thoáng đãng là khu vực minh đường. Hai bên tả hữu của minh đường có vòng tường xây dày nhưng thấp bao quanh gọi là nữ tường. Góc phía trong, mặt trên của nữ tường ở hai bên đều có đắp hình con rồng bằng xi măng cách điệu để trấn giữ khu mộ, có thể gọi là thạch tượng.
Tiếp đến là khu vực cổng chánh lăng mộ gọi là nguyệt môn, được bao quanh bởi một vòng tường lớn, xây đúc rất dày và cao hơn đầu người gọi là uynh thành. Bước vào cổng là đến sân bái đình, sau đó là khu vực mộ phần, và phía sau cùng của khu mộ là vách bình phong hậu ở chính giữa, bên tả có thêm miếu thờ hậu thổ.
1.1 Minh đường – Nữ tường
Khu vực minh đường thường là khoảng đất rộng, bằng phẳng, là một không gian mang yếu tố phong thủy đặc biệt quan trọng trong tổng thể khu mộ Thoại Ngọc Hầu, đóng vai trò như “tiền án”, thường được dùng làm nơi tụ sinh khí hoặc là tổ chức các nghi lễ quan trọng.
Tại khu mộ Thoại Ngọc Hầu, minh đường nằm trước cổng Song Quan Môn, tiếp giáp con đường chính dẫn đến khu mộ và phải bước lên 9 bậc thang, mở ra tầm nhìn toàn bộ mặt tiền công trình.
Nữ tường là bức tường xây thấp hơn uynh thành nằm phía ngoài cổng, được thiết kế như dạng tường bao, mặt trên tường đắp vữa bo cong nhẹ kết hợp với trụ cột cao cho cứng chắc. Thân trụ có trang trí ô hộc và trên đỉnh đầu trụ có đắp hình tượng đặc trưng theo phong cách “thọ hình”.
Hai vách nữ tường có thể đóng vai trò như biểu tượng của Thanh Long (bên tả) và Bạch Hổ (bên hữu), là hai hộ pháp trấn giữ hai bên minh đường.
1.2 Nguyệt môn (cổng chánh)
Nguyệt môn là cổng chánh dẫn vào khu mộ, tùy vào vị thế mà xây dựng lớn rộng đẹp đẽ khác nhau. Kiến trúc cổng của khu mộ Thoại Ngọc Hầu được xây rất bề thế theo dạng Song Quan Môn (dạng cổng vòm bán nguyệt có cánh cửa), tức là khu mộ có hai lối đi song song tương đương nhau, biểu trưng cho sự cân đối và trang nghiêm.
Kiểu cổng này thường mang dáng dấp của một kiến trúc cung đình Huế xưa, thể hiện sự uy nghi và tôn kính. Trên cổng được trang trí các ô hộc, đắp họa tiết hoa văn tinh xảo, cùng với đôi câu đối bằng chữ Hán.
Nhìn vào kiến trúc cổng của khu mộ Thoại Ngọc Hầu, riêng chi tiết vòm bán nguyệt có sự khác biệt về độ rộng lớn. Vòm cổng bên ngoài thấp và nhỏ hơn bên trong, sự chênh lệch này có lẻ không phải là ngẫu nhiên, mà là có chủ ý để biểu trưng cho một ý nghĩa nào đó.
1.3 Uynh thành – Bình phong hậu
Uynh thành là bức tường bao quanh bên ngoài, gần với các mộ phần được xây dựng kiên cố. Thiết kế tương tự như nữ tường nhưng uynh thành xây cao và dày hơn. Ngoài ra, bốn góc tường của uynh thành đều có trụ cột xây cao, thân trụ có trang trí ô hộc và trên đỉnh đầu trụ có đắp hình tượng đặc trưng theo phong cách “thọ hình”, tạo nên sự bảo vệ khép kín cho khu mộ, đồng thời tăng thêm vẻ uy nghiêm cho tổng thể kiến trúc khu lăng mộ.
Bình phong hậu lớn nằm ở giữa của vách tường uynh thành phía sau phần mộ song táng, tựa như núi đỡ lấy khu mộ. Được xây theo dạng vuông phương (tức là dáng hình có cạnh bình diện chớ không phải vuông vứt như khối lập phương), và xây cao hơn uynh thành nhưng có bo tròn chỗ góc bình phong hậu. Với thiết kế giản dị mà thanh nhã, không đắp hoa văn cầu kỳ mà trang trí phào chỉ, ô hộc đơn giản nhưng bình phong hậu đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tà khí và bảo vệ sự yên bình cho toàn bộ khu mộ.
1.4 Bái đình – Hậu thổ – Thạch tượng
Bái đình tức là cái sân dùng để hành lễ trước mộ, khi cúng kiếng hoặc tảo mộ con cháu bày vật phẩm lên án thờ rồi hành lễ bái lạy ở dưới sân này, là nơi những người khách viếng thăm thực hiện nghi lễ và cầu nguyện. Bái đình được thiết kế rộng rãi, thoáng đãng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các nghi lễ truyền thống.
(Án thờ là một bệ thờ thấp, thường được đặt trước phần mộ hoặc bia mộ, dùng để thắp nhang, đặt lễ vật khi cúng tế người đã khuất.)
Hậu thổ tức là cái miễu hoặc cái trụ đá để thờ thần đất chỗ mồ mả, tục gọi là hậu thổ hay thổ chủ. Hậu thổ thường thấy ở một góc trong khu mộ hoặc gần phía ngoài, thể hiện sự tôn kính đối với thần linh và cầu mong sự bảo hộ cho khu mộ.
Thạch tượng là những tượng đá để canh giữ trước mộ phần hoặc trấn giữ trước cổng ra vào để tăng thêm vẻ uy nghiêm.
1.5 Mộ phần
Vị trí trung tâm là khu mộ song táng của ông Thoại Ngọc Hầu, mất năm Kỷ Sửu (1829) và vợ chánh thất là bà Châu Thị Tế, mất năm Bính Tuất (1826), được xây ở phía trước của vách bình phong hậu. Đây là vị trí cao quý nhất, linh thiêng nhất trong toàn bộ khu mộ. Hai phần mộ được xây cao hơn nền sân 3 bậc cấp nhưng có thiết kế kiểu cách khác nhau.
Mộ ông theo kiểu trước cách cổ lầu (2 tầng mái), còn mộ bà là kiểu trước cách long đình (1 tầng mái). Đây là dạng sang trọng bậc nhất trong các dạng mộ, thường dùng cho các công thần và người có địa vị cao.
Tuy có vài nét khác nhau, nhưng nhìn chung thì cả 4 mặt hông của 2 ngôi mộ đều được trang trí ô hộc. Riêng mặt trước là phần bia mộ và đối liễn, viền bo ngoài tấm bia có trang trí họa tiết hoa văn đắp nổi.
Trên mái thì đắp giả ngói ống âm dương, bên dưới diềm mái thì đắp phào chỉ trang trí bo quanh tạo thêm điểm nhấn. Phần diềm mái, các bờ mái, bờ nóc và bờ quyết đều có đắp họa tiết hoa văn rồng mây, hoa lá, chim muông, bát bửu, con cù,… mang tính điển hình trong trang trí các lăng mộ thời triều Nguyễn, thể hiện sự uy nghi, bề thế cho tổng thể ngôi mộ.
Điều đặc biệt, phía trước và sau của phần mộ đều có xây thêm vách bình phong to bự án ngữ, tuy nhiên bình phong phía sau (đầu mộ) thì xây gần mộ phần, còn bình phong phía trước khu vực án thờ thì xa mộ phần hơn một chút. Cách bố trí này cũng để hạn chế việc đi qua lại phía đầu mộ, tránh đi trực diện vào mộ và để ngăn chặn những thứ bất thiện.
Mộ vợ thứ thất là bà Trương Thị Miệt, mất năm Tân Tỵ (1821) đặt phía bên tả (trong nhìn ra) và chỉ xây cao hơn nền sân 1 bậc cấp và lùi ra phía trước cổng một khoảng chứ không đặt ngang hàng với mộ ông và bà vợ chánh. Điều này phản ánh rõ nguyên tắc trật tự luân thường đạo lý ở thời triều Nguyễn, biểu hiện cụ thể cho thứ vị thấp hơn.
Kiểu mộ của bà Trương Thị Miệt vẫn là trước cách long đình nhưng phần họa tiết trang trí hoa văn tối giản hơn một xíu. Điều này cho thấy vẫn được tôn vinh bằng kiến trúc chuẩn mực, nghĩa là bà có địa vị rõ ràng, được ghi nhận. Nhưng được thể hiện một cách “khiêm cung” hơn, đúng với tư tưởng tam tòng – tứ đức của người xưa.
Tiếp tục, phía bên hữu là một quần thể mộ, cách sắp xếp các mộ này cũng rất đặc biệt, không rõ chủ ý là gì? Tất cả 14 phần mộ chia thành 4 hàng, tính theo thứ tự từ trong ra, bên trong cùng có 3 ngôi mộ, hàng thứ 2 là 4 ngôi mộ, hàng thứ 3 có 5 ngôi mộ, và hàng thứ 4 ngoài cùng là 2 ngôi mộ bé nhứt. Tuy nhiên, 3 hàng trong là chung 1 cụm (12 mộ) và cụm ngoài là 2 mộ.
(Đây có lẽ không chỉ là cách “tùy táng” bình thường, mà có thể đúng là một mô hình tổ chức mang chiều sâu văn hóa và tâm linh. Đúng theo tương truyền là liên quan đến nhóm gánh hát bội của ông, tất cả được chôn ở đây để khi sang thế giới bên kia vẫn tiếp tục được phục vụ ông?)
Ngoài vòng tường của uynh thành, hai bên tả hữu còn có hai khoảng đất rộng được gọi là “nghĩa trũng”, có tất cả khoảng 30 ngôi mộ không bia chí mang nhiều dáng dấp khác nhau. Có mộ đắp hình voi phục, có mộ đắp hình nón, có mộ đắp hình bầu dục. Những ngôi mộ này được cho là của những người chết trong thời gian tham gia đào kênh Vĩnh Tế nằm rải rác khắp nơi được Thoại Ngọc Hầu quy tập lấy cốt đem về cải táng trước khi dựng bia Vĩnh Tế Sơn.

2. Vật liệu xây dựng và yếu tố mỹ thuật tổng thể khu mộ
2.1 Vật liệu xây dựng:
Vật liệu sử dụng để xây dựng khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu thời điểm này (năm 1822) có thể là đá ong kết hợp với hồ tam hạp (hay còn gọi là vôi tam hạp) vì thời điểm đó ở miền Nam chưa có xi măng.
Đá ong thường có màu vàng nâu, đóng lại như cái ổ ong có nhiều hang hốc, thường dùng để xây mộ nhưng không bền và dễ hư tổn (do đá này mềm hơn các loại đá khác) nếu không được bao bọc thêm một lớp hồ tam hạp bên ngoài để bảo vệ.
Hồ tam hạp là dạng hồ trộn bằng ba thứ dùng để xây gạch, tô vách, bắt chỉ, đắp họa tiết hoa văn,… Hai chất liệu chính là vôi và cát, bên cạnh đó có trộn thêm một món thứ ba là nhựa cây ô dước hoặc một chất liệu khác (được cho là mật đường cây mía).
Nhựa của cây ô dước trộn vào vôi cát làm hồ thì lại tiết ra một chất nhựa làm cho hồ thêm dẻo, bền và rất chắc chắn, những công trình xây bằng chất liệu tam hạp này rất cứng cáp, trải qua cả trăm năm cũng còn bền.
Bên cạnh đó, có thể xây đúc các cấu kiện kết cấu của khu mộ bằng cách kết hợp hồ tam hạp với một số vật liệu khác như: than, san hô, vỏ sò, vỏ hàu, đá vụn, sỏi,…
2.2 Yếu tố trang trí mỹ thuật
Đề tài trang trí mang tính mỹ thuật trong các ngôi mộ cổ ngày xưa thường được chọn bằng những điển tích, văn tự mang ý nghĩa tốt lành, bên cạnh đó là những đồ án mang tính biểu tượng cao. Có thể kể đến một số đề tài như: bát bửu, tứ linh, tứ hữu, tùng lộc, hình tượng dơi,….
Các hình thức hoa văn đắp nổi đồ án con cù (cù long) với nhiều dạng thức khác nhau: con cù cách điệu, con cù giản hóa thành cuốn xoáy tròn, hay họa tiết con cù kỷ hà.
Ngoài ra, hoa văn trang trí phổ biến nhứt đắp các đồ án rồng mây cách điệu, dây lá hóa rồng dạng kỷ hà, hay đồ án lưỡng long tranh châu. Nhiều đồ án trang trí với dạng phù điêu đắp nổi hình rồng, giao long, lân, long mã, hổ,…kết hợp đắp nổi văn thơ chữ Hán để tô điểm và tạo sự uy nghiêm, thể hiện vị thế xã hội của chủ nhân khu mộ.
Kiểu thức trang trí ô hộc, đắp nổi các đề tài đồ án, trang trí diềm mái, hệ thống điểm bắt góc, bờ đao,… trong khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu phản ánh nhiều nét tương đồng về hình thức mỹ thuật thời triều Nguyễn. Tuy nhiên, có thể nói kiến trúc lăng mộ Thoại Ngọc Hầu dựa trên nền tảng truyền thống, kết hợp với sự giao lưu tiếp biến văn hóa để làm phong phú thêm và tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng đất miền Nam.
3. Không gian kiến trúc khác sau trùng tu
Sau các đợt trùng tu, khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu đã được bổ sung thêm vài hạng mục kiến trúc nhằm phục vụ việc tưởng niệm, thờ phượng và tham quan đối với du khách gần xa.
Ở phía trước cổng có nhà bia được xây mới theo kiểu cổ lâu, trên mái đắp xi măng giả ngói ống âm dương và trang trí hoa văn họa tiết rồng mây, hoa lá cách điệu… Bên trong để tấm bia Thoại Sơn (bản sao) bằng đá cẩm thạch trắng. Kế bên có thêm một tiểu đình để tượng ngựa và người lính hầu;
Phía sau lăng mộ là khu đền thờ ông Thoại, được xây dựng theo kiểu nhà kép miền Nam. Nhà chánh có kiến trúc theo kiểu nhà bánh ú hay tứ trụ cổ lâu, một gian hai chái kép. Nhà phụ phía trước, còn gọi là thảo bạt, là nhà ba gian hai chái;
Và nhà trưng bày cổ vật được xây dựng để lưu giữ và giới thiệu những hiện vật cổ, cùng các tư liệu quý giúp du khách hiểu sâu hơn về lịch sử, văn hóa ở thời đại ông sống.
4. Tổng kết
Kiến trúc khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu có nhiều nét tương đồng với các lăng mộ theo kiểu cách cung đình Huế thời triều Nguyễn. Mặc dù về quy mô và vài quy chuẩn khác thì không thể so sánh với các lăng hoàng gia thời kỳ đó. Về cơ bản, bố cục tổng thể, cũng như các đề tài trang trí mỹ thuật vẫn phản ánh một mô thức chung, mang tính thống nhất về hình thức nhưng có thể được cải biến về giá trị văn hóa và tinh thần để phù hợp với phong cách kiến trúc xây cất mồ mả của người miền Nam lúc bấy giờ.
5. Tư liệu tham khảo
– Sách: Nam kỳ kiến trúc khảo lược – Tác giả: Tử Yếng Lương Hoài Trọng Tín;
– Luận án: Lăng Thoại Ngọc Hầu trong hệ thống lăng mộ thời Nguyễn – Tác giả: Lương Chánh Tòng;
– Hình ảnh chuyến đi điền giả An Giang của các anh chị lớp Cổ Lệ Ất Tị;
👉 Bạn đang tìm kiếm một đơn vị uy tín để tư vấn thiết kế xây mộ gia tộc bê tông lắp ghép, hãy lựa chọn những đơn vị có kinh nghiệm lâu năm và đảm bảo yếu tố phong thủy để mang lại sự an lành cho cả gia đình.
👉 Liên hệ ngay với Công ty Huy Thịnh Phát
- Địa chỉ: 289/2 Phước Thiện, P. Long Bình, Tp Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh.
- Số điện thoại: 0903 917 151
- Email: congtyhuythinhphat@gmail.com
- Website: https://huythinhphat.vn/
Công ty Huy Thịnh Phát – Hơn 10 năm kinh nghiệm thi công mộ gia tộc tại Phúc An Viên, đồng hành cùng bạn kiến tạo di sản văn hóa gia đình.
👉 Các chủ đề bạn nên đọc tham khảo thêm:
- Xem thêm: Ý nghĩa của việc xây dựng mộ gia tộc cho gia đình dòng họ là gì?
- Xem thêm: Quy trình cúng động thổ xây dựng mộ gia tộc cho gia đình dòng họ như thế nào?